( 1533 – 2000 )
II. Trưởng thành trong máu đào ( thế kỷ XIX )
III. Phát triển trong phục vụ (thế kỷ XX )
I. KHAI SINH TRONG ÐAU KHỔ ( Thế kỷ XVI – XVII – XVIII )
Thời phôi thai của Giáo Hội Việt Nam ghi dấu bước chân rao giảng Tin Mừng tại Hà Tiên của các giáo sĩ dòng Ða Minh đến từ quần đảo Malacca như Luis de Foncesca, Grégroire de la Motte và Gaspar de Santa Cruz vào năm 1550. Tại Ðàng Ngoài, các giáo sĩ Diego Doropesa, Bartolomeo Ruiz, Pedro Ortiz, Francisco de Montila và bốn trợ sĩ đến từ tỉnh dòng Ða Minh Phi luật tân, truyền đạo tại vùng An Quảng (Quảng Yên), năm 1583 .
Tại Ðàng Trong, mùa xuân 1615, hai giáo sĩ Francesco Buzomi, Diego Carvalho và ba trợ sĩ Dòng Tên cập bến Cửa Hàn, Quảng Nam để rao truyền Tin Mừng, dưới quyền Chúa Nguyễn cát cứ. Những thế hệ tiếp nối như Francois de Pina, Christopho Bori; nhất là Alexandre de Rhodes ( Ðắc Lộ ), khuôn mặt nổi bật trong việc sáng tạo chữ “quốc ngữ ” dựa theo mẫu tự latinh và thiết lập đoàn “thầy giảng ” .
Tháng 2 năm 1626, tại kinh đô Ðàng Ngoài, Chúa Trịnh Tráng tiếp kiến giáo sĩ Julien Baldinotti, nhưng công việc truyền giảngTin Mừng chỉ đạt kết quả khả quan với sự cập bến Cửa Bạng (thanh Hoá ) vào ngày lễ thánh Giuse 19-3-1627, của hai giáo sĩ dòng Tên : Ðắc Lộ và Pierre Marquez. Giáo đoàn Kẻ Chợ mỗi ngày thêm tăng trưởng số giáo hữu nhờ sự cộng tác đắc lực của các “Thày giảng “. Phát động công trình biên soạn giáo lý, sáng tác kinh nguyện, thơ, vãn bằng chữ Nôm do các giáo sĩ khởi xướng như Gaspar d’Amaral, Antoine Barbosa và nhất là Gieronimo Majorica với sự đóng gop quan trọng của các thày giảng nhiệt thành .
Trong chuyến trở về Roma, giáo sĩ Ðắc Lộ đã vận động Bộ Truyền Giáo ấn hành hai tác phẩm chữ quốc ngữ đầu tiên(1651) của chính tác giả :
- Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn chịu phép rửa tội mà beào đạo Ðức Chúa Blời , sách dày 324 trang, mỗi trang in song ngữ Latin và Việt .
- Tự điển Việt – Bồ – latinh (Dictionarium Annamiticum – Lusitanum et Latinum ) , sách dày 500 trang, một chứng từ lịch sử vô giá về chữ quốc ngữ thời phôi thai .
* Giáo phận Ðàng Ngoài từ sông Gianh trở ra Bắc và bao gồm miền Nam Trung Hoa, đồng thời ủy nhiệm Giám Mục Francois Pallu (MEP ) làm Giám quản tông toà tiên khởi .
Giờ đây trên cánh đồng truyền giáo, công cuộc rao giảng Tin Mừng được tiếp nối với hàng giáo sĩ bản quốc, bốn thày cả tiên khởi được tuyền chức tại chủng viện Juthia, Thái Lan, do việc đặt tay của Giám mục Lambert de la Motte là Giuse Trang (tháng3-1668),Gioan Huệ và Bênêdictô Hiền (6-1668) và Luca Bền (1669). Các giáo sĩ dòng Tên đã tuyển chọn và huấn luyện tổ chức các “Thày giảng ” qua việc hình thành “nhà Ðức Chúa Trời ” để trợ lực trong công tác tông đồ, giảng dạy giáo lý cho tân tòng, thay thế các giáo sĩ khi các ngài bị trục xuất hoặc tình thế khó khăn và quản trị tài sản cộng đoàn .
Năm 1670, Giám mục Lambert de la Motte chính thc viếng thăm giáo phận Ðàng Ngoài và tổ chức công đồng đầu tiên tại Phố Hiến (tháng 2) truyền chức cho 7 thày cả, 48 thày nhận lãnh bốn chức nhỏ. Vào mùa chay, ngài khởi xướng đời sống tu trì cho người phụ nữ bản xứ qua việc thiết lập và phê chuẩn luật “Dòng Mến Thánh Giá “, các chị sống cộng đoàn, đặt của cải làm tài sản chung, dưới quyền của bà bề trên, hằng ngày nguyện ngắm sự khổ nạn của Chúa Kitô trên Thánh giá. Công việc mục vụ của các chị là dạy giáo lý cho người nghèo, viếng thăm người già yếu, bán thuốc viên và nhất là rửa tội cho các em nhỏ hấp hối con nhà nghèo túng trong mọi hang cùng ngõ hẻm của thôn làng .
Tiếp tay đắc lực trong công việc truyền giảng Tin Mừng với các giáo sĩ, thừa sai, thày cả, và thày giảng là “Hội đồng quý chức “, các ông chánh trương, ông trùm, ông biện, họ là những giáo hữu hăng say, niệt thành, can đảm, hi sinh chính mạng sống để bảo toàn, che giấu, bao bọc các thừa sai, các thầy cả trong thời cấm cách bắt đạo. Quý chức là những chứng nhân đức tin, củng cố niềm tin của anh chị em tín hữu trong cảnh tù đầy hay phân sáp giữa những gia đình trong làng các lương dân. Những nét thắm đậm, vàng son viết nên trang sử oai hùng của Giáo Hội trên quê hương đất Việt là hàng giáo sĩ bản quốc, các thày giảng, các chị em dòng Mến Thánh Giá và hàng quý chức.
Vào cuối thế kỷ XVIII, một trong các khuôn mặt nổi bật giữa các vị Thừa sai là Giám mục Bá đa Lộc (Pigneau de Béhaine ) bên cạnh hoàng tử Cảnh và Chúa nguyễn phúc Ánh; không nên quá chú ý đếnhoạt động trần thế của nhà thừa sai tràn đầy nhiệt huyết mà thiếu quan tâm đến những đóng góp tích cực về lãnh vực tôn giáo, văn hoá. Giám mục Bá đa lộc là tác giả hai tác phẩm :
* Thánh Giáo Yếu Lý bằng chữ Nôm, ấn hành năm1774 bao gồm 230 câu hỏi và trả lời, dày 70 trang, bản khắc in chữ chân phương rất đẹp .
* Dictionarium Anamitico Latinum năm 1772, thủ bản dày 729 trang, tàng trữ tại văn khố Hội Thừa sai Ba Lê, ký hiệu V.1060 (128 rue du Bac – 75007 Paris )









