Dân vũ thường là những điệu nhảy điệu múa có động tác đơn giản theo giai điệu, mang tính tập thể, ai cũng có thể hiện được, nội dung mang tính chất vui tươi hồn nhiên. Giai điệu trong dân vũ có thể là có lời hoặc không lời, động tác không cần phải diễn tả ý của lời ca.
Ví dụ: Dân Vũ cao cào cào.
Thuật ngữ “truyền thống” hay “dân tộc” thường dùng để nhấn mạnh đến cội nguồn văn hóa của điệu múa, cho nên hiểu theo nghĩa này thì hầu hết điệu dân vũ cũng chính là điệu múa dân tộc.
Tuy nhiên, không phải tất cả các điệu múa dân tộc đều là dân vũ; ví dụ những điệu múa trong các nghi lễ hoặc có nguồn gốc nghi lễ, tuy chúng là điệu múa đặc trưng, độc quyền của một khu vực dân cư, một tộc người cụ thể nhưng không được coi là dân vũ.
Dân vũ thường có những đặc điểm chung là:
– Các buổi nhảy múa thường do những người ít hoặc không được đào tạo chuyên nghiệp về múa, được tổ chức tại những buổi tụ tập, thường kèm theo nhạc cổ truyền. Các điệu nhảy thường không dành cho biểu diễn công cộng hoặc đưa lên sân khấu, mặc dù về sau người ta có thể dàn dựng và đưa chúng lên sân khấu.
– Các điệu dân vũ được kế thừa từ đời này sang đời khác mà ít có đổi mới (mặc dù truyền thống dân gian thay đổi dần theo thời gian).
– Các vũ công mới thường tập múa một cách không chính thức thông qua việc quan sát người đi trước hoặc do người đi trước chỉ bảo lại.
* Có ba loại dân vũ:
-Dân vũ lễ hội: từ các lễ hội.
-Dân vũ đời sống: hoạt động trong đời sống thường nhật của người dân trở thành các động tác trong điệu nhảy.
-Dân vũ sử thi: lấy cảm hứng từ lịch sử.
2/. Ca vũ:
Là hình thức văn nghệ vừa có hát và múa, mang tính chất chuyên nghiệp, thường được sử dụng để thể hiện một ca khúc biểu diễn trên sân khấu.
 
Ví dụ: Bài hát có nhóm múa minh hoạ, phụ hoạ.
3/. Cử điệu:
Là những động tác diễn tả lời ca hoặc lời đọc, có động tác phải đồng nhất và mang ý nghĩa của lời.
Khi chúng ta hát suông một bài hát nào đó nhưng lại ít tạo hưng phấn và hứng thú trong sinh hoạt. Ca hát kết hợp với vài động tác “tay chân” sẽ làm cho bài hát vui hơn, hay hơn; người hát cũng thích thú hơn, vì thế, lúc này chúng ta sẽ sáng tác ra một vài cử điệu. Cử điệu cũng là một ngôn ngữ cũng như lời ca hay giai điệu nhạc vậy. Trong buổi tiệc họp mặt bạn bè, trong chuyến du khảo ngắn ngày, trong buổi lửa trại, trong những cuộc liên hoan ở trường lớp, trong những buổi sinh hoạt Đoàn Đội,… không thể nào thiếu lời ca tiếng hát.
Cử điệu thường diễn tả lòng tri ân, sự kính trọng, quan niệm sống bác ái, vui tươi lạc quan… Cử điệu giúp bày tỏ những tính cách và ước nguyện kín ẩn của nội tâm như vâng phục, khiêm tốn, hồn nhiên trong sáng thể hiện trên nền nhạc đạo công giáo mình.
Ví dụ: Cử điệu gặp gỡ Đức Ki Tô
Ban Truyền thông.